Bệnh parkinson: Dấu hiệu nhận biết và phương pháp điều trị
Bệnh Parkinson là một bệnh lý liên quan đến sự thoái hóa chức năng thần kinh não bộ, ảnh hưởng đến hơn 10 triệu người trên thế giới. Vậy chính xác thì Parkinson là bệnh gì, ai có nguy cơ mắc bệnh, triệu chứng Parkinson là gì và có cách để ngăn ngừa, điều trị?
Bệnh Parkinson là gì?
Bệnh Parkinson là gì
Bệnh Parkinson là một bệnh lý thần kinh, biểu hiện bởi sự rối loạn thoái hoá của hệ thần kinh trung ương làm cho tế bào trong não bị thoái hóa, thiếu hụt dopamine. Những người mắc bệnh Parkinson không có đủ chất hóa học dopamine trong não do một số tế bào thần kinh tạo ra dopamine đã chết. (1)
Bệnh gây ra các rối loạn vận động, khiến người bệnh gặp khó khăn trong cử động, giữ thăng bằng và kiểm soát cơ. Thậm chí, người mắc bệnh Parkinson còn có thể mất đi một số chức năng vật lý bình thường.
Khoảng 10 triệu người mắc căn bệnh thần kinh này trên toàn thế giới, trong đó tại Anh, số người “sống chung” với bệnh Parkinson là khoảng 145.000 người. Tại Việt Nam, có khoảng 6,1 triệu người mắc bệnh Parkinson, chiếm 1% trên tổng dân số. Tỷ lệ người bệnh Parkinson tử vong cũng ở mức tương đối cao, tăng gấp 2,16 lần chỉ trong năm 2016 và đang ngày càng có dấu hiệu gia tăng. (2)
Bệnh Parkinson ở người già có những dấu hiệu gì?
Dấu hiệu bệnh parkinson ở người già khi ở giai đoạn nhẹ
Run: run bàn tay, cánh tay hoặc chân. Biểu hiện run thường khởi phát ở một bên người, run xuất hiện ngay cả khi người bệnh nghỉ ngơi, hay khi thực hiện các công việc thường ngày.
Cử động chậm chạp: người bệnh parkinson thường có bước chân đi chậm và kéo lê bước.
Rối loạn thăng bằng, cứng đờ các cơ bắp, giảm biểu cảm nét mặt, chảy nước dãi.
Dấu hiện bệnh parkinson ở người già khi ở giai đoạn nặng
Khi bệnh parkinson tiến triển ở giai đoạn muộn (bệnh nặng), người bệnh sẽ có nhiều triệu chứng nặng nề hơn như sau: giảm biểu cảm của nét mặt, chảy nước dãi, khó khăn khi xoay trở người, tư thế người đông cứng (đông cứng dáng đi), dáng đứng còng xuống, mệt mỏi, chữ viết nhỏ lại, táo bón, rối loạn giấc ngủ, giọng nói thều thào, rối loạn chức năng nuốt, rối loạn trí nhớ và khả năng tư duy, trầm cảm, lo sợ, đau, rối loạn cảm giác đau, rối loạn đại tiểu tiện, rối loạn chức năng tình dục, da khô, chóng mặt khi đứng và dễ bị té ngã. Khi bệnh ngày càng nặng thì các biểu hiện sẽ ngày càng nhiều và nổi trội hơn.
Nguyên nhân gây ra bệnh Parkinson ở người già
Hội chứng parkinson có thể don hững nguyên nhân sau:
– Sau viêm não: cổ điển là bệnh Von Economo, một số viêm não B, bệnh giang mai.
– Sau chấn thương: xảy ra ở vận động viên, làm chảy máu ở các nhân xám trung ương.
– Parkinson do di truyền, do u vùng đương não giữa, bệnh Wilson do thâm nhập đồng ở gan và não, do có bệnh ở mạch máu.
Bệnh Parkinson được điều trị như thế nào?
Phương pháp điều trị bệnh Parkinson
Cho đến nay, y học hiện đại cũng vẫn chưa có cách nào để phòng ngừa và chữa khỏi hẳn được bệnh Parkinson. Tuy nhiên, hiện nay có những thứ thuốc có thể làm giảm triệu chứng của bệnh rất tốt. Người ta khuyên nên phối hợp dùng thuốc với các biện pháp khác như vật lý trị liệu, tập luyện thể dục, chế độ ăn thích hợp,… Một số bệnh nhân bị Parkinson có thể được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật, ví dụ như phương pháp “kích thích não sâu” (deep brain stimulation – DBS).
Những loại thuốc chữa bệnh Parkinson hiệu quả:
– Các thuốc có chứa Levodopa: Là những thuốc quan trọng nhất trong điều trị bệnh Parkinson. Thuốc cho hiệu quả rất tuyệt vời, nhưng sau một thời gian dùng thuốc thấy rất tốt (người ta gọi là “tuần trăng mật” của thuốc), thì bắt đầu có những tác dụng phụ không mong muốn.
– Thuốc đồng vận dopamine (dopamine agonists)
– Thuốc ức chế men chuyển Cate-chol-O-methyl (Cate-chol-O-methyl transferase – COMT – inhibitors)
– Thuốc ức chế men oxy hóa monoamine (Monoamine oxidase B – MAO-B – inhibitors)
Lưu ý: Những thông tin cung cấp trong bài viế chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.
Bệnh Parkinson biểu hiện ở mỗi người một khác nhau, vì vậy không có một cách dùng thuốc duy nhất chung cho tất cả mọi bệnh nhân. Việc thăm khám theo định kỳ đều đặn ở bác sĩ chuyên khoa, để điều chỉnh liều lượng từng thuốc, cũng như phối hợp các kiểu thuốc với nhau, là rất cần thiết.